Dưới đây là 5 trường hợp lạm phát phi mã tồi tệ nhất từng xảy ra trong lịch sử.
5. Hy Lạp: tháng 10/1944
Tháng lạm phát cao nhất: 13.800%
Giá tăng gấp đôi sau mỗi 4,3 ngày
Lạm phát ở Hy Lạp bắt đầu vào tháng 10/1943 khi quân đội Đức đang chiếm đóng nước này trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Tuy nhiên, lạm phát trở nên trầm trọng nhất là vào tháng 10/1944 khi chính quyền lưu vong Hy Lạp giành lại quyền kiểm soát Athen. Giá cả đã tăng 13.800% vào thời điểm đó và tăng 1.600% vào tháng 11.
Năm 1938, trung bình người Hy Lạp giữ tiền trong khoảng 40 ngày rồi mới đem tiêu, nhưng vào ngày 10/11/1944, con số này co lại chỉ còn 4 giờ. Năm 1942, mệnh giá lớn nhất của đồng drachma Hy Lạp là 50.000, nhưng vào năm 1944, con số này là 100 nghìn tỷ. Ngày 11/11/1944, chính phủ Hy Lạp đã phải định giá lại đơn vị tiền tệ của mình và đổi đồng drachma cũ sang đồng tiền mới với tỷ lệ 50 tỷ : 1. Tuy nhiên, đại bộ phận dân chúng vẫn dùng đồng bảng Anh như một đơn vị tiền tệ không chính thức cho đến giữa năm 1945.
Nguyên nhân chính của cuộc siêu lạm phát này là chiến tranh. Cuộc chiến này đã làm Hy Lạp ngập chìm trong nợ nần, thương mại bị đình trệ và chịu 4 năm bị chiếm đóng. Năm tài chính 1939, Hy Lạp thặng dư ngân sách là 271 triệu drachma, nhưng khoản tiền này nhanh chóng chuyển thành thâm hụt 790 triệu USD vào năm 1940, chủ yếu do suy giảm thương mại và sản xuất công nghiệp thiếu nguyên liệu thô hiếm cộng với các khoản chi ngoài dự tính cho quân sự. Thâm hụt ngân sách còn gia tăng do ngân hàng trung ương Hy Lạp liên tục rút tiền, hành động này đã làm cung tiền trên thị trường tăng gấp đôi chỉ sau 2 năm.
Các nỗ lực bình ổn giá bắt đầu phát huy tác dụng từ tháng 1 đến tháng 5/1945, giá chỉ tăng 140%, nhờ nhà kinh tế học kiệt xuất Kyriakos Varvaressos. Thậm chí sang tháng 6/1945, Hy Lạp còn giảm phát tới 36,8% vào tháng 6/1945 . Tuy nhiên, kế hoạch tăng viện trợ từ nước ngoài, khôi phục sản xuất trong nước và tăng cường kiểm soát lương và giá cả thông qua việc phân phối lại của cải lại làm trầm trọng thêm tình trạng thâm hụt ngân sách của Hy Lạp, vì vậy, Varvaressos đã phải từ chức vào ngày 1/9.
Sau cuộc nội chiến 1945-1946, nước Anh đề xuất một kế hoạch bình ổn cho Hy Lạp, bao gồm tăng doanh thu từ việc bán hàng cứu trợ, điều chỉnh một số thuế suất đặc biệt, cải thiện phương pháp thu thuế và thành lập một Ủy ban tiền tệ ( gồm 3 bộ trưởng Hy Lạp, một người Anh và 1 người Mỹ) để chịu trách nhiệm các vấn đề về tài chính. Vào đầu năm 1947, giá cả được bình ổn, niềm tin người tiêu dùng được phục hồi và thu nhập người dân được nâng cao, chính thức đưa Hy Lạp thoát khỏi lạm phát phi mã.
4. Đức: tháng 10/1923
Tháng lạm phát cao nhất: 29.500%
Giá tăng gấp đôi sau mỗi: 3,7 ngày
Đồng mác Đức (papiermark) được sử dụng từ năm 1914 khi chế độ bản vị vàng bị bãi bỏ. Tỷ giá với đồng USD ban đầu ở mức 4,2 mác/USD khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Tuy nhiên, tháng 8/1923, người ta phải bỏ ra 1 triệu mác Đức để đổi USD. Và đến tháng 11/1923, con số này đã tăng lên 238 triệu mác. Đó là thời điểm xuất hiện sự rối loạn tâm lý mang tên “Zero Stroke” khi người dân Đức phải giao dịch với lượng tiền trị giá đến hàng trăm tỷ mác Đức mỗi ngày và chóng mặt với hàng dãy số 0 tưởng như bất tận.
Lạm phát cao buộc chính phủ Đức phải định giá lại đồng mác và thay đồng papiermark bằng đồng rentenmark với tỷ giá 4,2 rentenmark/USD và cắt bớt 12 số 0 trên tờ tiền papiermark. Mặc dù đồng rentenmark đã bình ổn kinh tế một cách khá hiệu quả và chính phủ cộng hòa Weimar vẫn tiếp tục tồn tại cho đến năm 1933, nhưng siêu lạm phát và những áp lực kinh tế mà nó gây ra đã góp phần cho sự nổi lên của đảng Nazi và Adolf Hitler.
Dù rất nhiều người tin rằng lạm phát phi mã ở Đức là hệ quả trực tiếp từ việc chính phủ in quá nhiều tiền để chi cho chiến tranh, nhưng nguyên nhân chính của việc này đã được hé lộ sau đó vài năm.
Năm 1914, Đức ngừng hỗ trợ cho đồng tiền nước này bằng vàng và bắt đầu đi vay để chi trả cho chiến tranh thay vì thu thuế. Năm 1919, giá cả gần như đã tăng gấp đôi và nước Đức thất trận. Thế nhưng giai đoạn 1919 - 1921, đồng tiền nước này vẫn còn tương đối ổn định so với những năm sau đó.
Khoản tiền bồi thường sau chiến tranh được quy định trong Hiệp ước Versailles buộc Đức phải trả bằng vàng hay ngoại tệ tương ứng thay vì đồng papiermark. Để mua số ngoại tệ này, chính phủ Đức đã phải sử dụng đồng papiermark được đảm bảo bằng nợ chính phủ và vì vậy đã làm tăng tốc độ phá giá đồng tiền.
Khi người Đức không thể trả được các khoản nợ, quân đội Pháp và Bỉ đã chiếm thung lũng Ruhr vào tháng 1/1923 để đòi hỏi Đức phải trả bằng hiện vật. Việc này đã gây ra rất nhiều vụ đình công và phản kháng bị động của công nhân tại đây và làm cho mọi việc trở nên tồi tệ hơn. Khi chính phủ các nước châu Âu xung đột về việc tìm ra cách tốt nhất để giải quyết tình trạng này, thì nền kinh tế Đức đã nhanh chóng suy sụp. Và chỉ trong vòng hơn 1,5 năm cả nước Đức đã chìm trong lạm phát phi mã.
3. Yugoslavia: tháng 1/1994
Một mệnh giá tiền Yugoslavia được in trong thời siêu lạm phát.
Tháng lạm phát cao nhất: 315.000.000%Giá tăng gấp đôi sau mỗi: 1,4 ngàyMột trường hợp siêu lạm phát nữa đã xảy ra với đồng dinar của Yugoslavia trong khoảng thời gian 1993 – 1995. Đỉnh điểm của cuộc lạm phát này là vào tháng 1/1994 khi giá cả tăng 313 triệu phần trăm trong vòng một tháng - tương đương 64,6% mỗi ngày với giá tăng gấp đôi chỉ sau 34 giờ. Trong toàn bộ thời kỳ lạm phát, ước tính giá cả tăng khoảng 5 triệu tỷ lần.
Cuối cùng, nhiều doanh nghiệp Yugoslavia đã từ chối sử dụng đồng dinar và đồng mác Đức (DM) trở thành đơn vị tiền tệ không chính thức của nước này, ngay cả sau khi chính phủ tái định giá đồng dinar bằng việc đổi 1 triệu dinar cũ sang 1 dinar mới. Theo một nghiên cứu của giáo sư Thayer Watkins đến từ đại học bang San Jose, vào ngày 12/11/1993, 1 mác Đức = 1 triệu dinar mới. Và vào ngày 15/12, 1 mác Đức đã tương đương 3,7 tỷ dinar. Còn đến cuối tháng thì tỷ lệ này đã trở thành 1 mác Đức = 3 nghìn tỷ dinar.
Sau lần định giá thứ hai, 1 dinar “mới của mới” tương tương 1 tỷ dinar “mới của cũ” và 1 mác Đức đổi được 6.000 dinar. Ngày 17/01/1994, tỷ giá vọt lên tới 1 mác Đức = 30 triệu dinar; đến ngày 24/01, chính phủ đã phải đưa ra đồng “siêu” dinar tương đương 10 triệu dinar “mới của mới”, đây chính là lần tái định giá thứ 5.
Trong suốt giai đoạn này, chính phủ đã phải trải qua một thời kì vô cùng khó khăn khi phải duy trì cấu trúc xã hội sau hàng loạt các biện pháp kiểm soát giá cả không hiệu quả. Các cơ quan chính phủ gần như không thể hoạt động và người dân thì không chịu trả hóa đơn đúng hạn bởi họ biết tiền sẽ mất giá rất nhanh sau đó.
Nguyên nhân đằng sau lạm phát của Yugoslavia chính là từ những xung đột trong khu vực, khủng hoảng kinh tế và những chính sách quản lý kém hiệu quả của chính phủ.
Sau cuộc suy thoái mang đậm dấu ấn của những khoản vay nước ngoài khổng lồ và đình trệ xuất khẩu vào thập niên 1970, Yugoslavia đã ngập chìm trong xung đột và đấu tranh chính trị trong suốt những năm 80 và 90. Trong hai năm 1989 và 1990, sau khi nhận khoản vay từ IMF, khoảng 1.100 công ty tại đây đã bị phá sản, kéo theo hơn 600 nghìn trên tổng số 2,7 triệu lao động bị sa thải. Ngoài ra, một số công ty đã quyết định không trả lương cho công nhân trong những tháng đầu năm để tránh phá sản. Việc này đã làm ảnh hưởng đến khoảng 500 nghìn người.
Chiến tranh Yugoslav, sự tan rã và mất ổn định của chính phủ là những nguyên nhân chính gây lạm phát phi mã. Sự quản lý yếu kém của chính phủ, bao gồm cả việc nhận thức kém về các chính sách kinh tế khi cho in tiền không kiểm soát, làm thâm hụt ngân sách ngày càng trầm trọng và áp đặt giá cả làm tình hình trở nên ngày càng tồi tệ.
Chính phủ áp đặt giá cả ở mức quá thấp và người dân không thể có lợi nhuận từ việc bán nông sản, hậu quả là, họ đóng cửa hàng để bảo vệ hàng hóa của mình. Còn chính phủ thì thay vì gỡ bỏ kiểm soát giá cả, họ lại mua hàng từ nước ngoài. Nguồn cung giảm mạnh khiến giá cả nhanh chóng tăng vọt.
2. Zimbabwe: tháng 11/2008
Tờ tiền mệnh giá 100 tỷ đô la Zimbabwe chỉ đủ mua 3 quả trứng gà.
Tháng lạm phát cao nhất: 79.600.000.000%
Giá tăng gấp đôi sau mỗi: 24,7 tiếng
Ví dụ về lần lạm phát phi mã gần đây nhất trên thế giới chính là tại Zimbabwe và đỉnh điểm là vào tháng 11/2008 khi lạm phát ở mức 79 tỷ phần trăm mỗi tháng. Dù chính phủ Zimbabwe đã ngừng công bố các số liệu thống kê chính thức về lạm phát trong những tháng tồi tệ nhất, nhưng các báo cáo đã sử dụng lý thuyết kinh tế chuẩn (sức mua ngang giá) để tính toán ra con số này.
Giá cả tăng gấp đôi chỉ sau 24 giờ. Vài ngày sau khi phát hành tờ tiền mệnh giá 100 triệu, ngân hàng trung ương phát hành tiền mệnh giá 200 triệu và giới hạn số tiền rút ra khỏi ngân hàng ở mức 500.000 tương đương 0,25 USD. Khi tờ 100 triệu được sử dụng, giá cả bắt đầu tăng chóng mặt; các báo cáo ghi lại rằng 1 chiếc bánh mì tăng từ 2 triệu lên 35 triệu chỉ sau 1 đêm. Có thời điểm, chính phủ còn tuyên bố lạm phát là bất hợp pháp và bắt tất cả giám đốc của những công ty nào dám tăng giá sản phẩm.
Tình hình tồi tệ đến mức nhiều cửa hàng đã phải từ chối nhận đồng nội tệ và coi đồng USD hay đồng rand của Nam Phi là đơn vị tiền tệ không chính thức. Lạm phát kết thúc khi ngân hàng trung ương Zimbabwe phải tái định giá đồng tiền theo đồng USD. Sàn chứng khoán cũng bị buộc phải đóng cửa theo lệnh của chính phủ.
Khi Zimbabwe giành được độc lập vào năm 1980, chính phủ nước này đã chấp nhận sử dụng đồng tiền mới với tỷ giá ban đầu so với đồng USD là 1,25 USD. Tuy nhiên, chính sự quản lý yếu kém của chính phủ Zimbabwe về sau đã gây ra cuộc lạm phát phi mã ngoài tầm kiểm soát này.
Lạm phát bắt đầu vào đầu thập niên 1990 khi tổng thống Robert Mugabe khởi động chương trình phân phối lại đất đai lấy từ nông dân gốc Âu để chia cho nông dân Zimbabwe. Việc này làm sản lượng nông nghiệp đột ngột giảm mạnh và giá cả tăng là điều tất yếu.
Đầu thế kỷ 21, Zimbabwe bước vào lạm phát phi mã và đến năm 2006, nước này đã in 21 nghìn tỷ đôla Zimbabwe để trả cho IMF. Cùng năm đó, Zimbabwe lại phải in thêm 60 nghìn tỷ đôla Zimbabwe để trả lương cho binh lính, cảnh sát và quan chức nhà nước. Năm 2007, nước này đã thiếu hụt trầm trọng nguồn lương thực thiết yếu, nhiên liệu và các thiết bị y tế. IMF ước tính lạm phát hằng tháng của Zimbabwe đã vượt mức 115 nghìn phần trăm vào cuối năm và chính phủ Zimbabwe đã phải dừng trả lương 6 tháng cho người lao động.
Tháng 4/2008, 50 triệu đôla Zimbabwe đã tương đương 1,20USD, trong khi đó, ngân hàng trung ương nước này ước tính nền kinh tế đã co lại 6% so với năm ngoái. Tháng 7/2008, tờ Los Anelges Times đưa tin chính phủ Zimbabwe đã hết sạch giấy để in tiền khi các nhà cung cấp giấy ở châu Âu tạm ngừng cấp cho Zimbabwe do lo ngại các vấn đề về nhân đạo.
1. Hungary: năm 1946
Tháng lạm phát cao nhất: 13.600.000.000.000%
Giá tăng gấp đôi sau mỗi: 15,6 tiếng
Siêu lạm phát tại Hungary khiến họ phải in tờ bạc với mệnh giá có tới 20 số 0.
Trường hợp lạm phát phi mã tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới từng được ghi lại là ở Hungary vào nửa đầu năm 1946. Giữa năm đó, tờ tiền mệnh giá lớn nhất ở đây là 100.000.000.000.000.000.000 pengo. Con số này năm 1944 chỉ là 1.000 pengo.
Tình hình trở nên trầm trọng đến nỗi chính phủ phải sử dụng một đơn vị tiền tệ đặc biệt được thiết kế cho trả thuế và bưu chính. Loại tiền này được điều chỉnh hằng ngày qua radio. Đồng pengo đã bị thay thế sau đó trong một lần tái định giá tiền. Người ta ước tính tại thời điểm đồng pengo được thay vào tháng 8/1946, tổng giá trị của tất cả các tờ tiền Hungary đang được lưu thông ở nước này có giá trị chỉ bằng 1/1000 USD.
Đồng pengo được đưa vào lưu thông sau khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc để bình ổn nền kinh tế và khắc phục tình trạng lạm phát. Ngành nông nghiệp của Hungary đã bị thiệt hại nặng nề sau cuộc Đại suy thoái, và các khoản nợ khổng lồ đã buộc ngân hàng trung ương nước này phải phá giá đồng tiền của mình để bù lại chi phí bằng cách nới lỏng các chính sách tài khóa và tiền tệ. Khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, nền kinh tế của Hungary đang rất yếu kém và ngân hàng trung ương gần như thuộc quyền kiểm soát hoàn toàn của chính phủ, in tiền theo nhu cầu của ngân sách mà không có bất kì hạn chế nào.
Lạm phát khủng khiếp đến mức tiền xu gần như biến mất khỏi thị trường, ban đầu là xu bạc, rồi đến đồng và cả ni-ken nữa, vì khi ấy giá trị của kim loại làm ra chúng còn đáng giá hơn cả mệnh giá của chúng nữa. Khi chiến tranh kết thúc, chính phủ nắm toàn quyền kiểm soát việc in tiền mà không có bất kì tài sản đảm bảo nào. Khi quân đội Xô Viết đến đây, họ cũng ngay lập tức phát hành tiền riêng của mình nên nhu cầu cho đồng pengo đã giảm hẳn.
Cuối cùng, chính phủ Hungary đành phải cho ra đời đơn vị tiền tệ mới – đồng forint – có thể quy đổi trực tiếp ra vàng và ra các ngoại tệ khác. Ngày nay, đồng forint vẫn đang được lưu thông, nhưng có lẽ nó sẽ được thay bằng đồng Euro trong vài năm tới.
(Theo VnExpress)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét